Cử nhân Ngôn ngữ & Văn hóa Các Dân tộc Thiểu số Việt Nam -
Ngành học thú vị, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hoá dân tộc
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), cảnh báo: khoảng một nửa trong số hơn 6.000 ngôn ngữ trên thế giới có nguy cơ biến mất trong thế kỷ 21. Bình quân cứ hai tuần, thế giới mất đi một ngôn ngữ. Vì vậy, trong suốt thời gian qua, Việt Nam đã và đang triển khai nhiều biện pháp nhằm giữ gìn tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số. Bởi chữ viết, tiếng nói chính là một tiêu chí cơ bản để xác định thành phần tộc người và là yếu tố quan trọng nhất để các dân tộc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Việc cho phép Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên mở ngành Cử nhân Ngôn ngữ - Văn hóa dân tộc thiểu số Việt Nam là một giải pháp đúng đắn nhằm góp phần giải quyết vấn đề cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao trong việc thực hiện mục tiêu chiến lược quốc gia này.
1. Thực trạng giảng dạy tiếng DTTS trong trường phổ thông trước khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới 2018
Ngay từ những ngày đầu thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng Hòa, Hiến pháp năm 1946 đã quy định việc học tiếng dân tộc thiểu số là một quyền của người dân tộc thiểu số (DTTS): “Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình” (Điều 15). Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cộng đồng người DTTS, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành hệ thống các văn bản quy định cụ thể về việc dạy và học tiếng dân tộc thiểu số. Nhờ vậy, ngay từ thời điểm đó, một số DTTS có tiếng nói, chữ viết đã được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông, mang lại hiệu quả giáo dục to lớn đồng thời góp phần giữ gìn và phát huy giá trị ngôn ngữ, văn hóa các DTTS.
Thực tế cho thấy, việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số trong trường phổ thông được thực hiện ở cả hai miền Bắc – Nam một cách bài bản và từng rất rầm rộ. Nếu ở Miền Bắc, chương trình này được thực hiện từ những năm 60 của thế kỷ XX, bắt đầu là các tiếng Hmông (Mèo), Tày - Nùng, Thái thì ở Miền Nam, sau ngày giải phóng (năm 1975), một số tiếng dân tộc thiểu số có chữ viết truyền thống đã sớm được đưa vào dạy trong trường phổ thông. Đặc biệt là tiếng Chăm, Khmer đã được triển khai dạy thực nghiệm ngay từ năm học 1977 - 1978. Tiếp đó, vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, một số tiếng DTTS ở Tây Nguyên đã có chữ viết và có dân số đông như Êđê, Bahnar, Jrai cũng được được đưa vào dạy thực nghiệm trong trường phổ thông.
Việc đưa các tiếng dân tộc thiểu số nêu trên vào giảng dạy ở trường phổ thông được chuẩn bị chu đáo cả về chương trình, tài liệu đến đội ngũ giáo viên… do đó đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận như: Số lượng các tỉnh, thành phố thực hiện dạy tiếng dân tộc thiểu số liên tục tăng. Tính đến năm 2016, cả nước có 23 tỉnh, thành phố thực hiện dạy học tiếng dân tộc thiểu số trong trường phổ thông. Quy mô trường lớp thực hiện dạy học tiếng dân tộc thiểu số không ngừng được mở rộng. Chỉ riêng năm học 2015 - 2016, cả nước đã có 682 trường, 5.272 lớp, 121.231 học sinh học tiếng dân tộc thiểu số. Ngoài ra, chất lượng dạy và học tiếng dân tộc thiểu số ngày càng được đảm bảo và nâng cao, đáp ứng mục tiêu giáo dục và yêu cầu góp phần giữ gìn và phát huy tiếng nói, chữ viết cũng như văn hóa của các DTTS.
Nhìn lại quá trình thực hiện việc dạy và học tiếng dân tộc thiểu số ở trường phổ thông trong thời gian gần một thế kỷ qua, có thể thấy, thành công lớn nhất là đã triển khai hiệu quả chính sách ưu việt của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề dân tộc nói chung và ngôn ngữ dân tộc nói riêng. Bởi so với nhiều quốc gia trên thế giới (kể cả một số nước phát triển), việc quan tâm đến ngôn ngữ dân tộc thể hiện qua hệ thống chính sách hoàn thiện về dạy học tiếng dân tộc thiểu số như Việt Nam là không nhiều. Đó là chưa kể Việt Nam đã đi sớm hơn so với nhiều quốc gia khác về chính sách ngôn ngữ dân tộc và dạy học tiếng dân tộc thiểu số. Dạy tiếng dân tộc thiểu số là dạy ngôn ngữ, dạy văn hoá, dạy tri thức bản địa và các tri thức nhân loại cho học sinh, giáo dục học sinh phát triển toàn diện. Hơn thế, dạy tiếng dân tộc thiểu số còn góp phần khích lệ, động viên học sinh, huy động học sinh đến trường và hạn chế tình trạng bỏ học của học sinh. Do đó, có thể khẳng định, việc giảng dạy tiếng dân tộc thiểu số là một giải pháp thiết thực trong việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá dân tộc trong cuộc sống và đem lại lợi ích to lớn về giáo dục cho người DTTS nói riêng và lợi ích quốc gia nói chung.
Tuy vậy, việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số giai đoạn này vẫn còn gặp nhiều khó khăn như: Nhiều DTTS có tiếng nói nhưng chưa có chữ viết nên không thể đưa vào dạy trong nhà trường. Việc tìm kiếm đội ngũ tri thức địa phương để tham gia vào việc xây dựng chương trình và sách giáo khoa tiếng dân tộc thiểu số gặp rất nhiều khó khăn. Sự thiếu thốn các tài liệu công cụ về tiếng dân tộc thiểu số (từ điển, sách ngữ pháp,...), tài liệu ngữ dụng (sưu tầm văn học dân gian, sáng tác văn học mới,...). Trong đó, một nguyên nhân quan trọng là do đội ngũ giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số hiện đang còn yếu và thiếu trầm trọng. Để giải quyết các vấn đề trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện có hiệu quả việc dạy và học tiếng dân tộc thiểu số thiểu số qua việc ban hành chương trình giáo dục phổ thông mới 2018.
2. Đào tạo giáo viên tiếng dân tộc thiểu số - giải pháp đúng đắn nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết của việc thực hiện chương trình GDPT mới 2018
Để triển khai có hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông mới 2018, bên cạnh việc khẩn trương hoàn thành việc biên soạn sách giáo khoa tiếng dân tộc thiểu số thiểu số; sách giáo khoa song ngữ (tiếng Việt - tiếng một số dân tộc ít người) đối với một số môn học ở cấp tiểu học theo Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông” thì việc cho phép các cơ sở giáo dục đủ điều kiện mở ngành đào tạo cử nhân Ngôn ngữ - Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam cũng là một việc làm vô cùng cấp thiết để giải quyết vấn đề trên.
Bởi lẽ, trong chương trình giáo dục phổ thông 2018, tiếng dân tộc thiểu số thiểu số được quy định là môn học tự chọn. Trên cơ sở Chương trình tổng thể, chương trình 8 thứ tiếng dân tộc thiểu số thiểu số (Khmer, Chăm, Êđê, M'Nông, Mông, Thái, Jrai, Ba Na) đã được ban hành kèm theo Thông tư 34/2020/TT-BGDĐT. Thời lượng môn học này là 70 tiết/năm học. Tính đến năm 2023, cả nước có 6 tiếng DTTS được tổ chức dạy học chính thức gồm: tiếng Mông; Ê đê; Jrai; Bahnar; Chăm và Khmer tại 21 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Hàng năm khoảng hơn 600 trường học, với 4.500 lớp học và 110 nghìn học sinh được học tiếng DTTS. Số học sinh được học tiếng DTTS chiếm khoảng 3,9% tổng số học sinh DTTS ở cấp học phổ thông. Bên cạnh 6 tiếng DTTS chính thức được dạy, còn có 7 tiếng DTTS đang triển khai dạy thực nghiệm trong trường phổ thông là: Hoa; Chăm; Thái; Cơ-Tu; Tà ôi; Pa cô; Bru Vân Kiều. Quy mô thực hiện 7 tiếng DTTS này ở hàng trăm trường, với hàng chục nghìn học sinh được học tiếng DTTS. Theo đó, sách giáo khoa tiếng dân tộc thiểu số thiểu số đã được ban hành và sử dụng trong các trường phổ thông đối với một số lớp ở bậc tiểu học. Chương trình “Nâng cao chất lượng dạy học các môn tiếng dân tộc thiểu số thiểu số trong chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn 2021 - 2030” cũng được Chính phủ phê duyệt. Đây chính là một trong các nhiệm vụ nặng nề mà ngành giáo dục đang nỗ lực thực hiện để đảm bảo quyền bình đẳng trong học tập của người dân tộc thiểu số. Do vậy, để thực hiện thắng lợi mục tiêu giáo dục quốc gia nói trên, rất cần đào tạo được một đội ngũ nhân lực đáp ứng yêu cầu và chất và lượng.
Đã có nhiều hội thảo và công trình đánh giá thực trạng tình hình đội ngũ giáo viên dạy tiếng DTTS và đưa ra những đề xuất để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy tiếng DTTS để đáp ứng được yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới. Theo đánh giá sơ bộ, sau hơn 10 năm thực hiện Nghị định số 82/2010/NĐ-CP của Chính phủ, việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của DTTS trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên đã được thực hiện khá tốt. Kết quả này là do các địa phương đã quan tâm phát triển, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ giáo viên tiếng DTTS. Tuy nhiên, hiện tại giáo viên dạy tiếng DTTS vẫn thiếu về số lượng, không đồng đều về chất lượng. Thống kê cho thấy, đến năm học 2020-2021, cả nước có 1026 giáo viên tiếng DTTS, chiếm 0,2% tổng số giáo viên các cấp học phổ thông. Giáo viên dạy tiếng DTTS có ở cả ba cấp học thuộc bậc học phổ thông, trong đó cấp Tiểu học chiếm gần 90% số giáo viên tiếng DTTS trong cả nước. Đội ngũ giáo viên dạy tiếng DTTS nhìn chung trình độ còn thấp. Hiện nay chỉ có giáo viên tiếng Khmer được đánh giá là cơ bản đạt trình độ chuẩn đào tạo về chuyên môn tiếng dân tộc thiểu số theo quy định. Giáo viên tiếng DTTS còn lại đều chưa có giáo viên đạt chuẩn đào tạo về tiếng DTTS. Một số giáo viên được đào tạo theo hệ 7+ hoặc 9+.
Để nâng cao chất đội ngũ giáo viên tiếng DTTS, các địa phương tuy có giảng dạy tiếng DTTS đã tổ chức đào tạo bổ trợ kiến thức theo các mô hình khác nhau. Chủ yếu là đào tạo theo mô hình bổ trợ, bồi dưỡng kiến thức trên nền tảng giáo viên cấp tiểu học. Theo đó, giáo viên tiểu học ngoài chuyên môn được đào tạo chính thức, giáo sinh được đào tạo bổ sung kiến thức, kỹ năng ngôn ngữ tiếng DTTS. Các hình thức đào tạo theo hướng bổ sung kiến thức, kỹ năng nên giáo viên được đào tạo không được cấp văn bằng. Tuy nhiên, trước năm 2024, cả nước mới chỉ có một trường đại học đào tạo giáo viên chính quy và cấp bằng chuẩn trình giáo viên tiếng DTTS là Trường Đại học Trà Vinh (ở khu vực phía Nam). Như vậy, để có thể đào tạo đội ngũ giáo viên tiếng DTTS đạt chuẩn, đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới thì cần phải có cơ sở đào tạo đạt chuẩn. Tuy nhiên, đội ngũ giảng viên ngôn ngữ, văn hóa DTTS tại các trường đại học đều thiếu. Do đó, đây sẽ là vướng mắc cần tháo gỡ trong thời gian tới để giúp các trường đại học và các địa phương có thể thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên tiếng DTTS. Do đó, từ năm học 2024- 2025, được sự cho phép của Đại học Thái Nguyên, Trường Đại học Khoa học chính thức trở thành cơ sở đào tạo giáo viên tiếng DTTS thứ 2 trong cả nước và duy nhất ở khu vực miền Bắc.
Việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Để nâng cao chất lượng giáo viên dạy tiếng DTTS đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới, từ năm học 2024 – 2025, Giám đốc Đại học Thái Nguyên đã quyết định giao nhiệm vụ cho Trường Đại học Khoa học đào tạo ngành Ngôn ngữ và Văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam. Theo đó, Trường Đại học Khoa học sẽ tuyển sinh hệ đại học ngành Ngôn ngữ và Văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam khoá đầu tiên từ năm học này với trên 40 chỉ tiêu. Khi trúng tuyển, sinh viên được lựa chọn học chuyên sâu ngôn ngữ tiếng: Mông, Dao, Tày và nghiên cứu về văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam. Hiện nay, Trường đã chuẩn hoá đội ngũ giảng viên cơ hữu và xây dựng kế hoạch phân luồng cho thí sinh lựa chọn đăng ký môn học phù hợp với năng lực, sở trường và điều kiện học tập của sinh viên. Để quá trình triển khai đạt được các mục tiêu của từng giai đoạn, Trường đặt ra các nhiệm vụ, như: Nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hóa các dân tộc thiểu số (DTTS); tư vấn, đánh giá các công trình khoa học về ngôn ngữ, văn hóa các DTTS; biên soạn giáo trình; xây dựng chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội có liên quan đến ngôn ngữ và văn hóa các DTTS; bồi dưỡng, cấp chứng chỉ tiếng DTTS (Tày, Mông, Dao).
Như vậy, có thể nói việc cho phép Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên được tuyển sinh ngành Cử nhân Ngôn ngữ - Văn hóa các DTTS Việt Nam là một hướng đi đúng đắn để từng bước nâng cao chất lượng giáo viên dạy tiếng DTTS, đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới trong bối cảnh hiện nay ở khu vực miền Bắc nói riêng và trong cả nước nói chung.
(Trà My, Khoa Báo chí – Truyền thông)